Giáp Thân tuyền trung thủy (1944, 2004): Đây là dòng nước tự sinh ra và tự lớn lên. Năng lượng của thủy khuếch tán khắp nơi, nên cần có một chốn để tụ về mới gọi là tốt. Thủy này dựa vào kim để tương sinh, chỉ sợ thổ của Mậu thân và Canh tý.
Ất dậu tuyền trung thủy (1945, 2005): đây là dòng nước đang tự yếu đi, vì thủy khí quá yếu nên cần nhờ năng lượng kim để sinh trợ. Thủy này sợ gặp thổ của Kỷ mão, Mậu thân, Kỷ dậu, Canh tý, Tân sửu vì đó là dấu hiệu mệnh chủ sẽ không đạt được thành tựu hay địa vị gì trong đời.
Thủy này sinh ra nhờ kim, cần phải có thùng gỗ đựng, nếu gặp sa trung kim và thoa xuyến kim thì đều tốt; rất kỵ gặp bạch lạp kim (tỵ hợi tương xung). Kiếm phong kim vốn là những kim loại rất vượng, nếu gặp tuyền trung thủy e rằng làm cho thủy tính trở nên hung hãn. Tuyền trung thủy gặp hải trung kim không đắc dụng, nhưng nếu kết hợp Ất sửu thì tốt, vì sửu là sơn, dòng suối bắt nguồn từ núi cao.
Mệnh tuyền trung thủy rất thích mộc, nếu gặp đại lâm mộc hay bình địa mộc, thì mệnh cục cần kiếm phong kim gọt giũa mới coi là tốt. Mệnh này gặp tùng bách mộc Canh dần, Tân mão là tốt nhất, vì giáp lộc tại dần, ất lộc tại mão, canh lộc tại thân, tân lộc tại dậu, tất cả đều quy về lộc, thật là tuyệt diệu vô cùng.
Tuyền trung thủy gặp hỏa cần nhớ quy tắc “âm dương tương kiến” thì tốt, gặp Phích lịch hỏa hoặc Thái dương hỏa thì tốt nhất, tuy nhiên không được xuất hiện cùng lúc, vì sẽ thành hung.
Tuyền trung thủy gặp lộ bàng thổ, sa trung thổ là tốt nhất, kế đến là ốc thượng thổ (thiên môn sinh thủy); gặp bích thượng thổ và thành tường thổ không đắc dụng; gặp đại dịch thổ không tốt vì thân dậu nằm ở thế bị khắc, nước bị thổ vùi lấp, phải cần trong mệnh cục có mộc mới hóa giải được.
Tuyền trung thủy thích gặp đại hải thủy, như dòng nước đã tìm ra được biển lớn. Nếu gặp đại khê thủy Giáp dần, Ất mão thì trở thành “quan tinh hô hoán cách” vì Giáp, Thân, Ất, Dậu đồng thời gặp nhau. Nếu 2 trụ năm và giờ đều có thủy, 2 trụ tháng và ngày đều có mộc thì trở thành cách cục “thủy nhiễu hoa đê” cách cục, vô cùng quý.